Tác động của biến đổi khí hậu đến sản xuất nông nghiệp và đời sống
Tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh trên 634.000 ha, trong đó: Nhóm đất nông nghiệp diện tích 57.000 ha chiếm 89,90% đất tự nhiên (đất lúa có diện tích 395.000 ha chiếm gần 62,34% đất nông nghiệp); đất phi nông nghiệp trên 61.000 ha, chiếm 9,73% diện tích đất tự nhiên; đất chưa sử dụng trên 3.374 ha, chiếm 0,37% đất tự nhiên. Nhìn chung, đất đai của Kiên Giang rất thích hợp cho phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản.
Tuy nhiên, vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp, thủy sản của cả nước đã và đang đối diện với những thách thức, khó khăn do biến đổi khí hậu gây ra. Theo tính toán của Bộ Tài nguyên và Môi trường, trong trường hợp mức nước biển dâng cao thêm 1m, diện tích đất bị ngập của tỉnh Kiên Giang sẽ rất nghiêm trọng, cụ thể như sau:
Thời tiết thay đổi thất thường làm tăng áp lực dịch hại trên nhiều loại cây trồng; dịch bệnh tăng cao, thậm chí có thể phát sinh một số loại sâu bệnh mới gây hại trong sản xuất cũng như trong quá trình bảo quản, sơ chế nông sản. Kiên Giang là một trong những địa phương chịu tác động nặng nhất của biến đổi khí hậu, nhất là đợt xâm nhập mặn năm 2015-2016.
Phụ lục 1: Thống kê thiệt hại do hạn hán, xâm nhập mặn 2015-2016 ĐBSCL
TT
|
Tỉnh
|
Lúa (ha)
|
Hoa màu (ha)
|
Cây lâu năm (ha)
|
Thủy sản (ha)
|
Thiếu nước sinh hoạt (hộ)
|
Tổng
|
Thiệt hại 30-70%
|
Thiệt hại trên 70 %
|
1
|
An Giang
|
92.000
|
92.000
|
|
|
|
2.000
|
76.100
|
2
|
Bạc Liêu
|
14.600
|
5.300
|
9.300
|
|
|
15.100
|
|
3
|
Bến Tre
|
20.400
|
2.900
|
17.400
|
500
|
5.200
|
1.800
|
41.300
|
4
|
Cà Mau
|
61.800
|
22.500
|
39.300
|
5.000
|
10.000
|
61.200
|
9.800
|
5
|
Hậu Giang
|
700
|
200
|
400
|
|
|
|
|
6
|
Kiên Giang
|
86.100
|
33.100
|
52.900
|
200
|
|
13.800
|
44.300
|
7
|
Long An
|
8.700
|
2.900
|
5.800
|
200
|
600
|
|
17.500
|
8
|
Sóc Trăng
|
27.300
|
15.900
|
11.400
|
200
|
4.000
|
|
28.000
|
9
|
Tiền Giang
|
3.800
|
1.200
|
2.600
|
100
|
100
|
|
92.000
|
10
|
Trà Vinh
|
28.600
|
9.300
|
19.300
|
1.300
|
4.000
|
200
|
9.300
|
11
|
Vĩnh Long
|
61.400
|
22.500
|
38.900
|
700
|
4.500
|
|
71.500
|
|
Tổng
|
405.100
|
207.800
|
197.300
|
8.100
|
28.500
|
94.200
|
389.800
|
(Nguồn: Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn)
Phụ lục 2: Dự báo số dân bị ảnh hưởng bởi mặn trong điều kiện BĐKH-NBD
Tỉnh/vùng
|
Năm 2012
|
Năm 2020
|
Năm 2030
|
Năm 2050
|
Dân số (người)
|
Tỷ lệ (%)
|
Dân số (người)
|
Tỷ lệ (%)
|
Dân số (người)
|
Tỷ lệ (%)
|
Dân số (người)
|
Tỷ lệ (%)
|
Toàn vùng
|
6.947.865
|
39,5%
|
7.276.403
|
41,4
|
7.952.674
|
45,3
|
8.363.518
|
47,6
|
Bạc Liêu
|
985.479
|
76,1
|
655.860
|
77,8
|
769.949
|
91,4
|
785.177
|
93,2
|
Bến Tre
|
1.212.388
|
89,4
|
1.306.209
|
96,3
|
1.341.496
|
99,0
|
1.363.295
|
100,0
|
Cà Mau
|
695.176
|
82,5
|
871.921
|
69,1
|
873.500
|
69,2
|
873.708
|
69,2
|
Hậu Giang
|
|
|
10.941
|
1,4
|
56.906
|
7,0
|
165.496
|
20,5
|
Kiên Giang
|
870.706
|
69,0
|
808.509
|
50,1
|
826.908
|
51,2
|
827.101
|
51,2
|
Long An
|
648.711
|
44,9
|
700.635
|
48,5
|
725.527
|
50,2
|
732.933
|
50,7
|
Sóc Trăng
|
8.423
|
1,0
|
1.024.708
|
79,1
|
1.148.444
|
88,7
|
1.195.326
|
92,3
|
Tiền Giang
|
566.737
|
32,4
|
653.627
|
37,4
|
732.157
|
41,8
|
790.699
|
45,2
|
Trà Vinh
|
973.624
|
92,0
|
1.306.209
|
96,3
|
1.026.288
|
97,0
|
1.034.426
|
97,7
|
Cần Thơ
|
|
|
|
|
|
|
14.977
|
1,3
|
Vĩnh Long
|
161.991
|
15,2
|
224.952
|
21,0
|
451.503
|
42,2
|
580.379
|
54,3
|
(Nguồn: Đoàn Thu Hà, 2014)
Những năm gần đây, ngoài phần diện tích đất sản xuất bị mất do tác động của tiến trình đô thị hóa, chuyển đổi phương thức sử dụng đất không đúng mục đích,.. thì tình trạng xâm nhập mặn, hạn hán, sạt lở đất,… cũng đã làm mất đi nhiều diện tích đất nông nghiệp, giảm khả năng sản xuất nông nghiệp và thủy sản, ảnh hưởng đến sinh kế của một bộ phận không nhỏ cư dân nông thôn, ven biển của tỉnh. Tình trạng nhiệt độ trung bình hằng năm trong mùa khô gia tăng, lượng mưa đầu mùa giảm, lượng mưa cuối mùa và mưa lớn bất thường tăng, diện tích bị ngập mở rộng và số ngày ngập lũ tăng, mực nước biển dâng cao, diện tích bị xâm nhập mặn ngày càng nhiều, mực nước ngầm giảm, sạt lở đất ven song, ven biển ngày càng dữ dội… được dự báo sẽ tác động rất lớn đến môi trường, hệ sinh thái, sản xuất nông nghiệp cũng như tạo ra nhiều vấn đề khó khăn cho sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh trong tương lai.
Nhìn chung, có thể nhận diện những tác động của biến đổi khí hậu đối với sản xuất nông nghiệp của tỉnh Kiên Giang trên các khía cạnh như sau:
Biến đổi khí hậu đã, đang và sẽ tác động đến an ninh nguồn nước, tác động mạnh đến nền kinh tế của vùng, đặc biệt là ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp như: năng suất, diện tích, sản lượng các loại cây trồng, vật nuôi khi không thích ứng kịp thời với hệ lụy do tình trạng biến đổi khí hậu và nước biển dâng gây ra (dễ nhận thấy nhất là nhiều công trình kết cấu hạ tầng - nhất là hạ tầng giao thông - bị hư hỏng, bị phá hủy). Từ đó, gây ra nhiều yếu tố bất lợi cho sản xuất, sinh kế và đời sống của người dân, kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương.
Nông dân, ngư dân và thị dân nghèo là những đối tượng bị tổn thương nặng nề từ tác động của biến đổi khí hậu, do thiếu điều kiện, cơ hội để có được nguồn dinh dưỡng tối thiểu, thiếu khả năng sở hữu tài nguyên, thiếu khả năng tài chính, thiếu điều kiện tiếp cận thông tin để có thể ứng phó kịp thời với sự thay đổi của thời tiết, khí hậu.
Trước những dự báo, UBND tỉnh Kiên Giang cũng đã có những bước chuẩn bị để ứng phó với biến đổi khí hậu. Tỉnh thực hiện đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững trước tình hình biến đổi khí hậu, tiến tới xây dựng nền nông nghiệp theo hướng hiện đại, hàng hóa tập trung, trong đó có sản xuất lúa; phát triển sản xuất nông nghiệp sạch, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và nông nghiệp hữu cơ để nền nông nghiệp tỉnh Kiên Giang sản xuất ổn định, bền vững và hiệu quả, chủ động ứng phó biến đổi khí hậu ngày càng diễn biến phức tạp.
Cụ thể là, trong nội bộ ngành nông nghiệp đã có sự chuyển dịch từ trồng lúa một vụ năng suất thấp sang nuôi trồng thủy sản, phát triển lúa + tôm nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất và thu nhập cho người dân. Đã chuyển đổi cơ cấu 02 vụ lúa Đông Xuân – Hè Thu sang cơ cấu 03 vụ lúa: Đông Xuân – Hè Thu – Thu Đông ở những diện tích có đê bao kiểm soát lũ đảm bảo ở huyện thuộc vùng Tây Nam Sông Hậu (Giồng Riềng, Tân Hiệp) và ở vùng Tứ giác Long Xuyên (Hòn Đất). Riêng khu vực ven biển vùng U Minh Thượng và Tứ giác Long Xuyên chuyển đổi sang phát triển mô hình tôm – lúa lúa cho hiệu quả kinh tế cao. Ngoài ra, chuyển đổi từ đất 02 vụ lúa sang phát triển mô hình lúa – màu ở huyện Giang Thành, Hòn Đất thuộc vùng Tứ giác Long Xuyên, ở Vĩnh Thuận thuộc vùng U Minh Thượng, ở Giồng Riềng thuộc vùng Tây Sông Hậu nhưng quy mô không lớn do hạn chế về thị trường tiêu thụ.
Thực hiện cơ cấu chăn nuôi hàng hóa theo hình thức trang trại, toàn tỉnh 87 trang trại, còn lại là nuôi theo hộ gia đình chăn nuôi heo, bò, gia cầm. Đến nay, có 16 cơ sở giết mổ gia súc tập trung thuộc thị xã, thị trấn, thành phố và 29 cơ sở giết mổ gia súc tập trung thuộc các xã, 48 điểm giết mổ kiểm tra đóng dấu kiểm soát giết mổ tại chợ thuộc vùng nông thôn, 06 cơ sở giết mổ gia cầm tập trung thuộc phường, thị trấn, thành phố được bố trí riêng biệt trong cơ sở giết mổ gia súc. Thông qua hệ thống đã kiểm soát, giết mổ trên 90% lượng sản phẩm động vật phục vụ nhu cầu tiêu thụ hằng ngày của tỉnh, so với trước năm 2017 chỉ kiểm soát được 70%.
Tổ chức lại khai thác hải sản theo hướng giảm dần tàu thuyền có công suất nhỏ khai thác ven bờ, phát triển tàu có công suất lớn đánh bắt xa bờ, góp phần bảo vệ an ninh chủ quyền vùng biên giới quốc gia. Phát triển nhanh hình thức nuôi tôm bán thâm canh, thâm canh, công nghiệp, nuôi cá lồng bè. Tăng diện tích nuôi tôm công nghiệp – bán công nghiệp vùng Tứ giác Long xuyên và tăng năng suất tôm – lúa vùng U Minh Thượng. Đẩy mạnh đầu tư phát triển cơ sở sản xuất tôm giống phục vụ sản xuất, đến nay sản lượng tôm giống đáp ứng khoảng 30% nhu cầu con giống nuôi. Từng bước áp dụng công nghệ trong nuôi tôm đã chuyển nuôi tôm từ phương thức quảng canh, quảng canh cải tiến sang nuôi tôm công nghiệp – bán công nghiệp ở những nơi có điều kiện; ứng dụng các quy trình thực hành sản xuất tốt theo tiêu chuẩn quốc tế và quốc gia trong nuôi tôm như GAP, GlobalGAP…
Các mô hình tổ chức sản xuất tiếp tục được củng cố và kiện toàn. Đến nay toàn tỉnh có 421 hợp tác xã, với tổng vốn điều lệ là 131 tỷ 631 triệu đồng và 57.219 ha canh tác; có 51.310 thành viên và tạo việc làm cho 8.627 lao động thường xuyên và lao động thời vụ. Trong đó có 373 HTX nông nghiệp (307 HTX trồng trọt và 66 HTX thủy sản) và 48 HTX phi nông nghiệp (04 HTX thương mại dịch vụ; 13 HTX giao thông vận tải; 03 HTX xây dựng; 06 tiểu thủ công nghiệp và 22 quỹ tín dụng nhân dân). Mô hình tổ hợp tác (THT) cũng phát triển mạnh mẽ với 2.106 THT; Với tổng số 43.992 tổ viên, bình quân 21 tổ viên/tổ; 67.985 ha đất canh tác, chiếm 17,6 % diện tích sản xuất nông nghiệp toàn tỉnh, với số vốn góp 17 tỷ 480 triệu đồng. Các HTX nông nghiệp mới đã bảo đảm hoạt động đúng tôn chỉ mục đích, nhiều nơi trở thành hạt nhân trong tổ chức sản xuất, thúc đẩy việc giải quyết các vấn đề an sinh, cơ cấu lại ngành nông nghiệp, thích ứng biến đổi khí hậu và xây dựng nông thôn mới.
Tính đến 6 tháng đầu năm 2019, toàn tỉnh có 219 HTX nông nghiệp trồng lúa hợp đồng liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm với Công ty TNHH Trung An; Công ty Cổ phần nông sản VINACAM; Công ty Nông Việt Pháp; Công ty Vạn Trường Phát và một số doanh nghiệp vừa và nhỏ khác, với tổng diện tích 37.273 ha lúa Hè – Thu. Tỉnh Kiên Giang cũng triển khai cánh đồng lớn áp dụng 1 phải – 5 giảm, sử dụng giống đạt phẩm cấp, giảm lượng giống gieo sạ theo tập quán từ 180 – 250 kg/ha, áp dụng sạ thưa xuống còn 80-120kg/ha. Tổng lượng giống sản xuất theo cánh đồng lớn giảm khoảng trên 5.600 tấn/năm, tổng chi phí giống giảm khoảng trên 67 tỷ đồng/năm. Nông dân sản xuất lúa được ký kết tiêu thụ đảm bảo lợi nhuận 40% cho nông dân. Nghiên cứu thành công việc, chọn, tạo, nhân giống lúa bằng phương pháp hiện đại trong công nghệ sinh học...có thời gian sinh trưởng ngắn, thích nghi với điều kiện biến đổi khí hậu, có khả năng chống chịu mặn, chống chịu tốt với dịch bệnh, cho năng suất cao, đạt tiêu chuẩn xuất khẩu để bổ sung vào cơ cấu giống của tỉnh như: GKG1, GKG9. Tuy nhiên, Vụ Đông – Xuân và Hè Thu vừa qua với tình trạng thời tiết cực đoan, mưa trái mùa, khó dự đoán đã làm ảnh hưởng nghiệm trọng đến năng suất, chất lượng sản phẩm làm ra thì người dân khó có thể hòa vốn chứ không dám nghĩ đến lãi đạt 40%. Bên cạnh đó, trong vụ Thu Đông tới đây các vùng ven biển và trà lúa sản xuất tại vùng Tứ giác Long Xuyên đang đối mặt với tình trạng nước biển xâm nhập sâu vào nội đồng, đe dọa đến sản xuất và sinh kế của người dân.
Một số vấn đề cần quan tâm trong phát triển nông nghiệp Kiên Giang thời gian tới:
Nghị quyết số 120/NQ-CP, ngày 17-11-2017 của Chính phủ “Về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu” đã xác định rõ quan điểm phát triển nông nghiệp vùng Đồng bằng Sông Cửu Long trong thời gian tới là: “Thay đổi tư duy phát triển, chuyển từ tư duy sản xuất nông nghiệp thuần túy, chủ yếu là sản xuất lúa sang tư duy phát triển kinh tế nông nghiệp đa dạng, đáp ứng nhu cầu của thị trường, chuyển từ phát triển theo số lượng sang chất lượng; xây dựng nông thôn mới gắn với phát triển mạnh mẽ nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ và nông nghiệp sạch gắn với chuỗi giá trị và xây dựng thương hiệu; chú trọng phát triển công nghiệp chế biến và công nghiệp hỗ trợ gắn với phát triển kinh tế nông nghiệp. Các sản phẩm nông nghiệp không chỉ để bảo đảm an ninh lương thực mà còn có giá trị dinh dưỡng cao, phục vụ công tác phòng, chữa bệnh tạo nên những thương hiệu nổi tiếng”.
Trên cơ sở đó, mục tiêu được đề ra là phải xây dựng nông nghiệp, nông thôn tỉnh Kiên Giang phát triển toàn diện, bền vững, thích ứng cao với biến đổi khí hậu; sản xuất các ngành đạt năng suất, chất lượng, giá trị và khả năng cạnh tranh cao; cơ cấu kinh tế và tổ chức sản xuất hợp lý; hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước hiện đại; thu nhập và đời sống của người dân ngày càng nâng cao; tài nguyên thiên nhiên được sử dụng hiệu quả; môi trường được bảo vệ và cải thiện,… Để đạt được mục tiêu này, thiết nghĩ thời gian tới cần chú trọng thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Thứ nhất, đổi mới và tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, hình thành ý thức chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, sử dụng tiết kiệm tài nguyên và bảo vệ môi trường.
Đa dạng hóa hình thức, đổi mới nội dung, xác định các đối tượng ưu tiên tuyên truyền, giáo dục; đưa nội dung ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường vào chương trình đào tạo các cấp học phổ thông, đại học, đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý. Phổ biến kinh nghiệm, xây dựng năng lực, kỹ năng phòng tránh thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu cho mọi người dân, doanh nghiệp và toàn xã hội.
Nâng cao ý thức trách nhiệm về thích ứng với biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành, doanh nghiệp và mọi người dân. Xây dựng tiêu chí, chuẩn mực về bảo vệ môi trường trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cán bộ, đảng viên
Thứ hai, đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ trong sản xuất nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu, tăng cường công tác quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường.
Chuyển đổi cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi, điều chỉnh mùa vụ, kỹ thuật sản xuất nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu trong toàn vùng và từng tiểu vùng. Tạo điều kiện bồi dưỡng kiến thức, nâng cao năng lực thích ứng, bảo đảm sinh kế cho người dân những vùng có nguy cơ bị ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu, vùng thường xuyên bị tác động của thiên tai.
Quy hoạch những vùng cần bảo vệ bằng “công trình cứng” (khu vực xung yếu, đê biển ngăn mặn, đê sống bao bọc vùng đất canh tác) và vùng thích nghi với biến đổi khí hậu. Khôi phục rừng ngập mặn ven biển và rừng phòng hộ giữ nước mưa.
Quy hoạch lại hệ thống thủy lợi nội đồng của tỉnh cho hợp lý để tiết kiệm nước ngọt. Nghiên cứu áp dụng giống lúa chịu mặn ở những nơi không giải quyết được thủy lợi, đồng thời xây dựng mô hình sản xuất mới để người dân có thể nhanh chóng thích nghi với điều kiện biến đổi khí hậu.
Có cơ chế, chính sách hợp lý khuyến khích phát triển các hợp tác xã nông nghiệp, trang trại, doanh nghiệp nông nghiệp; hoàn thiện chính sách ưu đãi về đất đai, tín dụng, thuế đối với các hợp tác xã nông nghiệp, trang trại, doanh nghiệp nông nghiệp, nhất là ở vùng sâu, vùng xa… Hỗ trợ kinh tế hộ gia đình phát triển sản xuất hàng hóa theo hướng mở rộng quy mô ruộng đất, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, từng bước phát triển ngành nghề dịch vụ nông thôn để tăng thu nhập.
Lắp đặt hệ thống quan trắc, cảnh báo ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, nước biển dâng đối với nông nghiệp, nông thôn ở những khu vực nhạy cảm thuộc vùng ven biển, cửa sông. Từng bước đầu tư hoàn thiện hệ thống thủy lợi, hoàn chỉnh hệ thống đê biển, đê sông, hệ thống cống điều tiết và các hạ tầng kỹ thuật cần thiết khác phục vụ sản xuất nông nghiệp và đảm bảo đời sống của nhân dân.
Chú trọng ứng dụng công nghệ mới sử dụng năng lượng hiệu quả, tiết kiệm năng lượng; tăng cường sử dụng năng lượng tái tạo (điện mặt trời, điện gió); trồng và bảo vệ rừng; cải tiến kỹ thuật tưới tiêu trong nông nghiệp; thay đổi kỹ thuật canh tác giống, thời vụ; nâng cấp công trình thủy lợi, giao thông.
Thứ ba, rà soát, điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất có xét đến những thay đổi của điều kiện biến đổi khí hậu và thiên tai.
Cần chú trọng công tác quy hoạch sử dụng đất nông nghiệp, mặt nước thủy sản hiệu quả với sự xem xét tác động trước mắt và lâu dài của biến đổi khí hậu, đảm bảo nền sản xuất nông nghiệp - thủy sản ổn định và bền vững. Điều chỉnh lại quy hoạch sử dụng đất phải quan tâm đến vấn đề bảo vệ và bảo tồn các hệ sinh thái ven biển nhạy cảm nhằm phục vụ cho chiến lược thích ứng với biến đổi khí hậu, hướng tới hiệu quả bền vững, đặc biệt là về khai thác, đánh bắt thủy hải sản gần và xa bờ.
Thứ tư, tăng cường công tác bảo vệ tài nguyên và môi trường nước.
Nâng cao nhận thức cộng đồng về sử dụng tiết kiệm, bền vững nguồn tài nguyên nước thích ứng với điều kiện biến đổi khí hậu. Sử dụng nguồn nước một cách khoa học và hợp lý trong sản xuất và sinh hoạt.
Nguồn tài nguyên nước ngọt ở Kiên Giang đang suy giảm, nhất là tại các khu vực ven biển. Tình trạng này được dự báo sẽ còn gia tăng và trầm trọng hơn trong vài thập kỷ tới. Cường độ và tần suất các cơn bão, lũ lụt, hạn hán, xâm nhập mặn được dự báo sẽ gia tăng, làm thay đổi cả về chất lượng và trữ lượng nguồn nước ngọt. Trong khi đó, hiện tại, các vấn đề về nguồn nước ngọt chưa được quan tâm đúng mức. Đây sẽ là mối đe dọa đến sự phát triển nông nghiệp, thủy sản, công nghiệp, thương mại - dịch vụ của vùng trong tương lai không xa. Vì thế, quản lý nguồn nước ngọt cần được xem là một mục tiêu ưu tiên hàng đầu trong những năm tới và đặc biệt được quan tâm tại các khu vực ven biển.
Thứ năm, chủ động thích ứng, chú trọng công tác thông tin, dự báo.
Ngoài các giải pháp nêu trên, để có thể xác định biện pháp thích ứng hữu hiệu với biến đổi khí hậu là các cấp quản lý cần xác định các đối tượng chịu tổn thương, đánh giá mức độ tổn thương; tăng cường năng lực, nhận thức, ý thức và hành vi bảo vệ môi trường - sinh thái, giảm thiểu các tác nhân làm khí hậu xấu hơn.
Đồng thời, cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu, chọn tạo các giống cây trồng và vật nuôi có khả năng chịu đựng ngưỡng thời tiết, khí hậu khắc nghiệt hơn, điều chỉnh lịch thời vụ và cơ cấu cây trồng - vật nuôi phù hợp với từng tiểu vùng sản xuất; xây dựng quy chuẩn xây dựng cơ sở hạ tầng phù hợp với điều kiện biến đổi khí hậu và nước biển dâng trong tương lai; lồng ghép các biện pháp thích nghi với biến đổi khí hậu vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; xây dựng và duy trì mạng lưới thông tin, nâng cấp hệ thống cảnh báo thời tiết - thiên tai ở tỉnh.