Lúa Hè Thu sớm 2019 tại kiên Giang đang vào thu hoạch, nhưng giá lúa không khả quan
Thực tế phải nhìn nhận rằng nếu tình hình giá bán thấp hơn giá thành sản xuất trong điều kiện thời tiết bất lợi như hiện nay người nông dân trồng lúa sẽ khó có thể sống bằng cây lúa. Việt Nam là quốc gia có số lượng gạo xuất khẩu đứng hàng thứ ba trên thế giới, với thâm niên 30 năm xuất khẩu gạo. Nhưng chưa bao giờ ngành lúa gạo của Việt Nam nói chung, lúa gạo của Kiên Giang nói riêng lại lâm vào tình cảnh khó khăn như vậy. Sau những nguyên nhân được chỉ ra bao gồm chất lượng hạt gạo còn thấp, không xây dựng thương hiệu thì nguyên nhân sâu xa có thể nói đó chính là cung vượt cầu? Vì lượng gạo xuất khẩu của ngành lúa gạo Việt Nam năm 2018 khoảng 6,15 triệu tấn, trong khi lượng lúa của vụ Đông – Xuân 2019 đã đạt 10,9 triệu tấn, lượng lúa vụ Hè Thu 2019 dự kiến cũng cho sản lượng 9,12 triệu tấn, nhưng tình hình xuất khẩu từ đầu năm 2019 đến nay thì khả năng tồn kho của lúa gạo Việt Nam thời gian tới sẽ là rất lớn.
Tình hình xuất khẩu lúa gạo từ đầu năm 2019 đến nay, ngày càng giảm
Đáng chú ý, báo cáo của Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho thấy, 5 tháng đầu năm, Trung Quốc chỉ nhập từ Việt Nam gần 224 ngàn tấn gạo, trị giá hơn 111,3 triệu USD, giảm gần 74% so với cùng kỳ năm 2018.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Nguyễn Xuân Cường cho biết, năm nay trong bức tranh chung nông sản toàn cầu đến giờ qua kết quả thống kê thì thấy giá tất cả các nhóm nông sản đều giảm từ 5-15% tùy nhóm. Trong đó đặc biệt là lúa gạo khi mặt hàng này giảm sâu, giảm nhiều trên tất cả các phân khúc. Trong 6 tháng đầu năm nay, giá lúa gạo trên thế giới, sản lượng thương mại đều giảm, đặc biệt giảm rất nhanh về giá bình quân. Vừa rồi gạo Việt xuất khẩu giá bình quân chỉ còn hơn 400 USD/tấn.
Giải pháp nào cho hạt gạo?
Từ vụ Đông Xuân 2019, Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang đã triển khai nhiều biện pháp cứu vãn tình thế giá lúa xuống thấp, giúp nông dân thoát khỏi cảnh bán dưới giá thành sản xuất. Tuy nhiên, cứ đến mùa thu hoạch việc “giải cứu” lúa lại được đưa ra, thì chỉ giải quyết được tình thế trước mắt, về lâu dài cần những giải pháp căn cơ hơn.
Trước tiên vẫn là chuyện chất lượng hạt gạo Việt, phải kiểm soát được dư lượng tồn đọng trong hạt gạo. Làm thế nào gạo Việt phải có chất lượng ít ra cũng bằng chất lượng gạo của những nước đang cạnh tranh xuất khẩu với ta. Hiện nay, tiêu chuẩn nhập khẩu gạo vào một số quốc gia rất cao. Ở Nhật Bản khoảng 600 tiêu chuẩn thuốc bảo vệ thực vật, châu Âu và Mỹ cũng khoảng vài trăm. Trong khi người nông dân còn giữ tập quán canh tác cũ, thoải mái sử dụng tràn lan các chế phẩm thuốc bảo vệ thực vật như hiện nay thì việc kiểm soát dư lượng thuốc trên hạt gạo là việc rất khó.
Thứ hai, là cần lai tạo ra những bộ giống lúa, gạo chất lượng cao. Hiện nay, chỉ bộ giống lúa thơm ST (Sóc Trăng) của tiến sĩ - Anh hùng lao động Hồ Quang Cua cho hạt gạo xuất khẩu có thể cạnh tranh với gạo Basmati trồng ở Ấn Độ và Pakistan; gạo Khao Dawk Mali hay Jasmine trồng ở Thái Lan. Hiện tại giá gạo xuất khẩu các giống này trên dưới 1.000 USD/tấn, gấp đôi giá gạo xuất khẩu thường.
Trung tâm giống Kiên Giang cũng đã lai tạo thành công bộ giống lúa GKG, đây là bộ giống thích nghi tốt với điều kiện của tỉnh, cho năng suất cao, kháng sâu bệnh. Tuy nhiên, đến nay các nhà khoa học nông nghiệp vẫn chưa tạo ra nhiều bộ giống tốt, mới tương tự để tạo ưu thế cho xuất khẩu là một sự thiệt thòi cho nền nông nghiệp xuất khẩu.
Thứ ba, là gạo Việt chưa có thương hiệu trên thị trường gạo thế giới. Tạo một thương hiệu cho một nông sản, nhiều quốc gia trên thế giới thường cần khoảng thời gian 10 năm. Việt Nam xuất khẩu gạo 30 năm nay vẫn chưa có một thương hiệu trên thế giới đây rõ ràng là bất lợi của lúa gạo Việt Nam trên bản đồ thị trường gạo thế giới. Thời vàng son xuất khẩu gạo trên 7,7 triệu tấn/năm đã qua rồi, nhu cầu thị trường gạo thế giới ngày nay không như thập niên trước. Thị trường gạo thế giới đang có sự canh tranh về chất lượng hạt gạo ngày càng khốc liệt với sự xuất hiện thêm nhiều quốc gia mới tham gia thị trường này với bao bì in nhiều biểu tượng bắt mắt, dễ nhìn, nêu địa chỉ sản xuất cũng như có nhiều thứ tiếng để cạnh tranh.
Thứ tư, phải hình thành càng sớm càng tốt một nền nông nghiệp xanh, sạch và hữu cơ. Một định hướng phù hợp cho gạo xuất khẩu và phù hợp với việc bảo vệ môi trường.
Gạo hữu cơ Agribio – NTUM của HTX Nông dân Sản xuất Nông sản hữu cơ Rạch Giá là sản phẩm gạo hữu cơ hiếm hoi của tỉnh (ảnh: nguồn internet)
Thứ năm, nhắm đến gạo chất lượng cao cho thị trường nội địa, đây là thị trường tiềm năng cần tập trung khai thác. Đã đến lúc cần chú trọng quảng bá gạo Việt cho thị trường nội địa song song với thị trường xuất khẩu để ổn định có căn cơ và bền vững cho đầu ra lúa gạo.
Vấn đề là phải đảm bảo chất lượng, uy tín và niềm tin về thương hiệu gạo Việt trong lòng người Việt. Trên con đường đi tìm đầu ra ổn định cho lúa gạo Việt, rất cần sự gắn kết chặt chẽ và đồng bộ trong chuỗi liên kết xuất khẩu và thị trường tiêu thụ trong nước.
Thứ sáu, địa phương cần phải mạnh dạn quy hoạch. Có một thực tế phải nhìn nhận là địa phương chưa mạnh dạn cơ cấu giống lúa, diện tích sản xuất trong từng mùa vụ. Tái cơ cấu nông nghiệp như chọn lợi thế từng vùng, chọn giống, chọn mô hình, thay đổi tư duy sản xuất nông dân, chọn cách đầu tư, khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp tạo dòng chảy vốn lớn vào nông nghiệp.
Với quán tính sản xuất "thấy người ăn khoai vác mai đi đào", năm nay giống nào dễ bán sang năm đua nhau trồng, người nông dân vô tình phá vỡ quy hoạch về giống cũng như diện tích gieo trồng, tạo nên sản lượng lúa thừa "cục bộ". Như vụ Đông Xuân 2018-2019 nông dân của tỉnh trồng quá nhiều giống lúa Đài Thơm 8, lượng cung vượt cầu, lại thêm giá thấp, nên người dân rất khó khăn trong việc tìm thương lái mua, thậm chí không bán được, và vụ Hè Thu tới đây có thể tình trạng sẽ tiếp diễn trên giống lúa OM5451, khi nông dân các huyện đồng loạt gieo sạ giống này. Không chỉ cơ cấu lại quy hoạch mà về lâu dài cần giảm dần diện tích đất trồng lúa cho kinh tế thấp chuyển sang cây trồng cạn hoặc nuôi thủy sản phù hợp, nhằm giảm cung lúa gạo và thích nghi với tình trạng biến đổi khí hậu đang tác động mạnh mẽ đến sản xuất nông nghiệp của tỉnh.