
Công ty Hidano làm việc với huyện Vĩnh Thuận về hợp đồng tiêu thụ lúa hữu cơ
Cầu nối doanh nghiệp và nông dân
Tỉnh Kiên Giang hiện có 407 hợp tác xã với tổng số 48.713 thành viên, chủ yếu là hợp tác xã nông, lâm, ngư nghiệp, thủy sản với 352 hợp tác xã, chiếm 86,5% tổng số hợp tác xã toàn tỉnh.
Theo đánh giá của Liên minh Hợp tác xã tỉnh Kiên Giang, sau khi chuyển đổi theo Luật Hợp tác xã năm 2012, hợp tác xã nông nghiệp đã từng bước đa dạng các khâu dịch vụ, áp dụng và chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, phát triển vùng sản xuất hàng hóa tập trung theo hướng chuyên cây, chuyên con có giá trị cao…
Một số mô hình hợp tác xã kiểu mới sản xuất, trồng trọt hữu cơ gắn với chuỗi giá trị từ sản xuất tới tiêu thụ sản phẩm. Ngay từ đầu vụ, hợp tác xã đứng ra liên kết với doanh nghiệp cung cấp giống, hướng dẫn biện pháp canh tác, phòng trừ dịch bệnh và cuối vụ tổ chức thu mua nông sản. Cách làm này đã giúp gia đình các thành viên trong xã bớt vất vả hơn nhiều so với trước đây phải bán nhỏ lẻ hoặc bán cho tư thương, giá cả bấp bênh.
Vinacam Hòn Đất là một trong số những hợp tác xã điển hình của tỉnh Kiên Giang thực hiện được liên kết sản xuất trong nông nghiệp theo chuỗi giá trị. Ngay khi thành lập hợp tác xã đã thành lập trên nền tản là có sự tham gia của doanh nghiệp xuất khẩu gạo Vinacam, nên các thành viên trong hợp tác xã ngay từ đầu vụ đã được ký hợp đồng cung cấp giống chất lượng, hướng dẫn quy trình và kỹ thuật canh tác, khi thu hoạch doanh nghiệp sẽ tiến hành thu mua theo giá đã thỏa thuận, người làm lúa sẽ không sợ bị tư thương chèn ép giá khi vào vụ thu hoạch như trước đây.

Thành viên HTX NN Vinacam Hòn Đất đang giao lúa cho công ty
Ông Lê Tấn Đức – Chủ tịch Hội đồng quản trị hợp tác xã nông nghiệp Vinacam Hòn Đất cho rằng, nếu không liên kết với doanh nghiệp sẽ rất khó để giải được bài toán tiêu thụ đầu ra cho nông sản, nhất là khi thị trường lúa gạo đầy biến động như hiện nay.
Ngoài cây trồng chủ lực là lúa, các loại nông sản khác dù năng suất cao nhưng không thể tìm được doanh nghiệp liên kết, thu mua. Bởi vậy, mong mỏi của nông dân là thu hút được doanh nghiệp vào liên kết sản xuất, có đầu ra ổn định cho cây trồng chủ lực địa phương.
Nông dân có tư liệu sản xuất, có trình độ canh tác, chịu khó học tập các kỹ thuật canh tác mới song lại khó tiếp cận thị trường; trong khi đó, đây lại là thế mạnh của doanh nghiệp. Bởi vậy, hợp tác xã không chỉ là cầu nối mà còn là “bà đỡ” cho nông dân trong liên kết sản xuất.
Trong mỗi liên kết, doanh nghiệp tổ chức chuyển giao khoa học kỹ thuật và đầu tư giống cho nông dân, hợp tác xã đứng ra tổ chức cho sản xuất và thu mua sản phẩm theo đơn đặt hàng của các doanh nghiệp. Nhờ đó, nông dân yên tâm sản xuất, tránh được điệp khúc “được mùa - mất giá”, “được giá - mất mùa” kéo dài nhiều năm trước đây.
Loay hoay tìm đối tác liên kết
Thống kê của Liên minh Hợp tác xã tỉnh Kiên Giang, đến nay toàn tỉnh có 221 hợp tác xã đã hợp đồng liên kết sản xuất tiêu thụ lúa với 13 doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh thực hiện sản xuất, tiêu thụ sản phẩm cho các hộ thành viên với diện tích 36.573 ha, tuy nhiên đây là con số còn khá khiêm tốn, chỉ chiếm 5 % so với tổng diện tích gieo sạ của tỉnh Kiên Giang năm 2018 (tổng diện tích trồng lúa của toàn tỉnh là 727.209 ha). Phần lớn nông dân sản xuất giống lúa theo kinh nghiệm canh tác, theo sở thích và tự tìm các nguồn tiêu thụ bên ngoài, thông qua các thương lái và “cò lúa”.
Trong vụ Đông Xuân 2018-2019 hiện nay, giá lúa Đài Thơm chỉ còn 4.800 đồng/kg, Jesmine là 4.900 đồng/kg lúa tươi giảm 1.000 đồng/kg so với cùng kỳ năm trước. Thương lái lại không mua nên nông dân lo lắng và gặp nhiều khó khăn trong khâu tiêu thụ. Đây là tình trạng chung trong những năm qua, vì sản xuất ồ ạt, không có định hướng, nên người nông dân như “đánh bạc” với thị trường, may thì được giá cao. Trong khi các hộ, các hợp tác xã tham gia ký kết hợp đồng với doanh nghiệp thì có đầu ra ổn định, mặc dù giá thấp hơn cùng kỳ năm trước nhưng người dân đảm bảo có lợi nhuận, như Hợp tác xã nông nghiệp Hiệp lợi – Hòn Đất ký hợp đồng với công ty Hidano sản xuất lúa theo hướng hữu cơ, giá ký hợp đồng lúa DS1 ngay từ đầu vụ là 6.200 đồng/kg lúa tươi, trong khi hộ sản xuất lân cận cùng một loại giống nhưng bán cho thương lái bên ngoài hiện nay chỉ 5.100 đồng/kg. Đây được xem như kinh nghiệm sản xuất trong thời gian tới: lúa gạo chỉ có con đường phát triển duy nhất là nâng cao chất lượng, gia tăng giá trị và cơ cấu lại sản phẩm phù hợp với nhu cầu của thị trường.

Trong khi giá lúa thị trường giảm sâu, thành viên HTX NN Hiệp Lợi vẫn an tâm sản xuất vì đã ký hợp đồng với doanh nghiệp từ đầu vụ
Tuy nhiên, trong những năm qua việc thu hút doanh nghiệp, đối tác vào liên kết sản xuất là bài toán khó với chính quyền địa phương nói chung và các hợp tác xã nông nghiệp nói riêng. Việc hợp tác, liên kết sản xuất ở nhiều nơi vẫn còn mang tính hình thức cho nên chưa hấp dẫn để thu hút hộ nông dân tự nguyện tham gia; Nơi người dân có nhu cầu liên kết lại không biết tìm đâu những công ty, doanh nghiệp có uy tín, chất lượng; đầu ra nông sản hàng hóa chưa thật sự ổn định, vẫn còn xảy ra tình trạng được mùa mất giá. Hơn nữa, việc liên kết tiêu thụ lúa giữa doanh nghiệp với nông dân còn hạn chế. Nông dân và doanh nghiệp chưa tìm được tiếng nói chung để cùng chia sẻ lợi ích cũng như rủi ro trong sản xuất, kinh doanh, dễ phá vỡ hợp đồng; phát triển sản xuất quy mô lớn, theo chuỗi giá trị gắn sản xuất với bảo quản, chế biến và tiêu thụ theo chuỗi trên cơ sở phát huy lợi thế chưa trở thành phổ biến. Địa phương chưa có những chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp khi đầu tư vào nông nghiệp.
* Giải pháp
Theo Quyết định số 388/QĐ-TTg, ngày 10/4/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Kiên Giang đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030, tỉnh Kiên Giang xây dựng nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, tập trung, chất lượng, hiệu quả, khả năng cạnh tranh cao trên thị trường gắn với tái cơ cấu nông nghiệp trong điều kiện biến đổi khí hậu. Muốn đạt được mục tiêu trên, liên kết sản xuất tiêu thụ sản phẩm giữa tổ hợp tác, hợp tác xã và doanh nghiệp được xem là giải pháp căn cơ để người nông dân sản xuất lúa theo hướng ổn định, bền vững.
Trong chuỗi liên kết này, doanh nghiệp sẽ giữ vị trí tiếp cận thị trường, nắm vững tình hình, dự đoán những rủi ro có thể; đồng thời, giúp hộ nông dân tổ chức lại sản xuất và sản xuất theo các tiêu chuẩn, chất lượng mà thị trường cần.

Cần sự liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp và nông dân trồng lúa
Bên cạnh đó, Để các hợp tác xã thực sự phát huy tốt hơn nữa vai trò trong xây dựng các chuỗi liên kết sản xuất, thời gian tới, rất cần những chính sách ưu tiên của tỉnh, các sở, ngành về quy hoạch đất đai, ưu đãi tín dụng, có chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp khi đầu tư vào nông nghiệp... Sự quan tâm của các ngành, các cấp và địa phương trong khâu giới thiệu, lựa chọn những doanh nghiệp uy tín, có nhu cầu hợp tác lâu dài cho các hợp tác xã trên địa bàn tỉnh. Cùng với đó là sự hỗ trợ giúp nông dân tiếp cận khoa học - kỹ thuật tiên tiến thông qua tập huấn, xây dựng mô hình trình diễn; nâng cao trình độ quản lý của cán bộ hợp tác xã; củng cố đội ngũ cán bộ hợp tác xã và hoàn thiện cơ chế quản lý hợp tác xã; giúp doanh nghiệp và nông dân hợp tác ký kết hợp đồng liên kết sản xuất - tiêu thụ; phát triển và xây dựng nhãn hiệu cho các nông sản được coi là thế mạnh của các hợp tác xã.